Bình tung hiệp ảnh lục

Chương 31 : Hai mươi năm trôi qua như giấc chiêm bao - nhu tình tựa nước nhất tiếu giải ân thù

Ngạch Cát Đa nghiến răng, quay đầu lại không dám nhìn bộ mặt đáng sợ của Thoát Bất Hoa, y kéo thi thể của nàng qua một bên, bắt đầu châm lửa, trong chốc lát ngòi nổ đã cháy, y lập tức nhảy qua một bên. Trương Đan Phong không dám nhìn nữa, chàng nhảy xuống bức tường, tay trái dắt cha, tay phải dắt Đàm Đài Diệt Minh, cười thê lương nói: “Cha, Đàm Đài tướng quân, hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau ra đi!” Đàm Đài Diệt Minh tuy không thấy tình hình bên ngoài, nhưng nghe đích thân Ngạch Cát Đa châm nổ pháo, tia hy vọng đã tắt ngấm, thế là giơ cao cây ngô câu đâm vào tim mình. Vân Trọng bị Chu Kỳ Trấn dùng ba đạo kim bài gọi vào triều kiến. Chu Kỳ Trấn được vua Ngõa Thích giành cho được điện nhỏ ở bên phải hoàng cung, Vân Trọng theo ba bvệ sĩ đến trước cửa điện, vệ sĩ canh cửa vào báo cáo, một lát sau vệ sĩ ấy ra nói: “Vân đại nhân, ngài hãy chờ ở đây”. Vân Trọng lòng lo như lửa đốt, nói: “Hoàng thượng gọi tôi lập tức triều kiến, sao lại còn bảo tôi chờ?” “Hoàng thượng vẫn còn đang ăn tổ yến!” Vân Trọng vừa nôn vừa tức, không ngờ ông ta ba lần bốn lượt thúc giục mình nhưng thật ra là đang rỗi rãi ngồi ăn tổ yến. Một lát sau, một tiểu thái giám Mông Cổ bước ra vừa mới nói được một tiếng “mời”, Vân Trọng đã ba chân bốn cẳng chạy vào cung, chỉ thấy Chu Kỳ Trấn ngồi trên ghế, xung quanh là bốn tiểu thái giám Mông Cổ đang đấm lưng cho y, trông như chẳng có chuyện gì gấp gáp. Vân Trọng cố nén cơn giận, quỳ xuống đất, tâu ba tiếng vạn tuế. Chu Kỳ Trấn kéo chiếc ghế rồi chậm rãi nói: “Khanh gia bình thân, ban ngồi”. Vân Trọng đứng dậy, chưa kịp ngồi thì đã hỏi: “Hoàng thượng có chuyện gì gấp gáp mà cho gọi hạ thần?” Chu Kỳ Trấn ho một tiếng rồi nói: “Đúng thế, chuyện này rất gấp gáp. Trẫm đột nhiên nghĩ lại, ngày mai chúng ta quay về nước, nhưng rốt cuộc nước Ngõa Thích là chủ, chúng ta là khách. Họ kính trọng chúng ta, chúng ta cũng phải giữ lễ, vua Ngõa Thích đích thân đưa trẫm ra khỏi thành, nếu chúng ta chấp nhận thì có hơi quá đáng, chi bằng cứ do khanh rước trẫm ra khỏi cung, chúng ta sẽ đưa biểu cáo từ, nếu vua Ngõa Thích muốn đến, chúng ta sẽ đợi y ở bên ngoài thành, như thế mới hợp lễ tương kính”. Té ra đó là chuyện gấp, Vân Trọng giận đến nỗi nghẹn lời, Vân Trọng đã biết Chu Kỳ Trấn được “tiếp đãi” như thế nào trong thời gian bị cầm tù ở Ngõa Thích, không ngờ đến nay y lại chẳng màng đến thân phận Thiên tử, phải dâng biểu cáo từ, lại còn bảo đó là “Lễ tương kính”. Vân Trọng liếc mắt, chỉ thấy bốn tiểu thái giám tủm tỉm cười. Vân Trọng chột dạ, chợt hỏi: “Đó có phải là ý của Hoàng thượng không?” Chu Kỳ Trấn nghiêm mặt quát: “Vân Trọng, ngươi có biết tội lỡ lời không? Đó là ý của trẫm”. Thật ra Dã Tiên sau khi phát giác Thoát Bất Hoa trốn đi, đã đoán được rằng nàng sẽ đến nhờ Vân Trọng cho nên một mặt sai người ngăn cản, một mặt sai Oa Trát Hợp truyền lệnh cho Ngạch Cát Đa, lại cho người vào cung uy hiếp Chu Kỳ Trấn, bảo rằng y phải làm thế làm thế, để cho Vân Trọng không thể cứu được cha con Trương Đan Phong. Hoàng cung đang nằm dưới sự khống chế của Dã Tiên, y đương nhiên có thể mặc sức thao túng, Chu Kỳ Trấn cũng sợ Dã Tiên không thả mình về nước cho nên nghĩ bụng: “Đừng vì chuyện lễ tiết mà sinh ra lôi thôi”. Rồi nghe theo lời Dã Tiên, gọi Vân Trọng trở về, nhưng vì cũng muốn giữ thể diện cho mình cho nên bảo rằng ý của mình. Chu Kỳ Trấn mắng Vân Trọng mấy câu thì đổi sắc mặt, nói: “Niệm tình ngươi lần này đi sứ có công, trẫm không giáng tội ngươi. Nay trẫm sẽ sai người dâng biểu cho vua Ngõa Thích. Ngươi hãy đợi ta ban thưởng cho bọn thái giám trong cung, khi trời sáng chúng ta sẽ lên đường”. Vân Trọng chợt cao giọng nói: “Hoàng thượng không cần sai người dâng biểu, thần đã thông báo cho Quốc vương Ngõa Thích, ngày mai không đi nữa!” Chu Kỳ Trấn cả kinh gằng giọng mắng: “Ngươi... ngươi sao dám tự tiện làm chủ?” Vân Trọng nói: “Thần phải đến gặp Trương Đan Phong”. Chu Kỳ Trấn càng kinh hãi hơn, vỗ bàn quát: “Cái gì, ngươi sẽ đi gặp Trương Đan Phong? Ngươi có biết bọn chúng ta hậu duệ của Trương Sĩ Thành hay không? Trẫm không áp giải bọn chúng về nước xử tội là coi như đã rất khoan dung, ngươi còn dám đi gặp bọn chúng! Hừ... hừ, sao lại có lý ấy!” Vân Trọng vẫn không thay đổi thần sắc, nói: “Hoàng thượng, người có biết không? Lần này hai nước cầu hòa, Hoàng thượng được rước về nước là chủ trương của Vu Các Lão, nhưng cũng là ý của Trương Đan Phong. Nếu Trương Đan Phong không dò thám hư thực của Ngõa Thích rồi báo cho Vu Khiêm, chúng ta không thể cứng rắn với Dã Tiên như thế!” Sắc mặt Chu Kỳ Trấn trắng bệt, y hừ một tiếng rồi nói: “Theo ngươi nói, Trương Đan Phong trung thành với trẫm?” Vân Trọng nói: “Đúng thế, y trung với nước!” Chu Kỳ Trấn nói: “Ngươi lên tiếng cho phản tặc, ngươi được y báo đáp những gì?” Vân Trọng tức đến nghẹn lời, chợt nghe trống canh đã gõ đến canh năm, chàng buột miệng nói: “Dã Tiên sắp cho nổ pháo vào Trương gia, vi thần và Trương gia có thù sâu như biển, nhưng dù bị Hoàng thượng xử tội cũng phải cứu Trương gia. Nói đến điều lợi, bệ hạ đã nhận được điều lợi của họ mà không biết, Vu Các Lão kêu gọi quân cân vương cho bệ hạ, đánh bại Dã Tiên, chính Trương Đan Phong đã giúp một nửa quân thưởng!” Chu Kỳ Trấn trợn mắt, lắp bắp nói: “Ngươi... ngươi có còn là kẻ bề tôi ăn lộc triều Minh ta không? Ngươi... ngươi nói giúp cho y, ngươi dám chống lại lệnh vua?” Vân Trọng nước mắt lưng tròng, ngẩng đầu lên nói dứt khoát: “Vi thần biết chống lệnh vua sẽ bị xử tội chết, sau khi vi thần đến nhà họ Trương đương nhiên sẽ tự sát để báo ân vua, nhưng mong Hoàng thượng hãy nhờ Vu các lão sai sứ thần đến rước Hoàng thượng về nước”. Chu Kỳ Trấn kinh hãi vô cùng, y ngày đêm mong ngóng được về nước để ngồi lại lên ngai vàng, nếu Vân Trọng bỏ y, không biết lúc nào mới có thể có người rước y trở về; mà người khác cũng chưa chắc giỏi bằng y, Chu Kỳ Trấn nghĩ đến đây, bất giác mồ hôi lạnh chảy dài, thế rồi đổi giọng vội vàng nói: “Khanh gia có lời gì hãy cứ nói”. Vân Trọng nói: “Dã Tiên lòng lang dạ sói, cũng chẳng có ý tốt gì với Hoàng thượng, nay chỉ vì y bị buộc phải giàng hòa với chúng ta mà thôi. Hoàng thượng, ngài tin Dã Tiên, hay tin Trương Đan Phong. Thần đi đây!” Chu Kỳ Trấn vội vàng kêu lên: “Khanh gia hãy chờ đã!” Vân Trọng nôn nóng vô cùng, nghe Chu Kỳ Trấn gọi, đành quay đầu lại nói: “Hoàng thượng có gì sai bảo?” Chu Kỳ Trấn rung giọng nói: “Trẫm sẽ cùng đi với khanh”. Té ra Chu Kỳ Trấn không ngăn được Vân Trọng, sợ rằng ở trong hoàng cung Ngõa Thích sẽ bị Dã Tiên hãm hại. Mà thật ra Dã Tiên đang nôn nóng cầu hòa, chỉ dám dọa y chứ chẳng dám làm gì cả. Sau khi cân nhắc, Chu Kỳ Trấn cảm thấy đi theo Vân Trọng thì an toàn hơn. Yêu cầu ấy khiến Vân Trọng bất ngờ, Vân Trọng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy vẻ mặt Chu Kỳ Trấn tựa như một con thỏ sợ thợ săn, chẳng giống gì với lúc nãy. Trong lòng chàng dâng lên cảm giác chán ghét một tội nghiệp, cảm thấy vị Hoàng đế này thật ra rất nhỏ nhoi, nhưng vẫn cung kính quỳ xuống tiếp nhận thánh chỉ. Bên ngoài trời rất lạnh, Chu Kỳ Trấn nói: “Hãy chờ trẫm khoác thêm tấm áo”. Thế rồi bước vào phòng trong, mở tủ áo, chiếc áo khoác lông cao màu trắng đập vào mắt, chính Trương Đan Phong đã tặng cho y chiếc áo này khi còn bị nhốt ở tháp đá. Chu Kỳ Trấn nhìn thấy chiếc áo thì nhớ lại tình cảnh lúc ấy, bất giác cầm tấm áo lên mân mê, nhưng lại ném xuống, trong lòng bối rối, cứ chọn đi chọn mãi mà vẫn chẳng có chiếc nào hợp ý. Trời đã sáng, tia nắng dần dần len vào khe cửa sổ, Vân Trọng nói: “Hoàng thượng, xin thứ cho vi thần không thể đợi được nữa!” Câu nói ấy khiến cho Chu Kỳ Trấn bừng tỉnh, y luống cuống chụp lấy tấm áo khoác lên người rồi nói: “Ta đến đây”. Khi y và Vân Trọng rời khỏi hoàng cung mới phát giác mình khoác trên người tấm áo da cáo do Trương Đan Phong tặng! Tùy tùng của Vân Trọng bị chặn lại ở giữa đường, khi Vân Trọng và Chu Kỳ Trấn đến, Thái úy Mông Cổ ấy mới cho họ đi qua, lúc đó trời đã sáng bừng. Vân Trọng vỗ ngựa chạy nhanh, nụ cười thân thiết của Trương Đan Phong hiện ra trước mặt, tựa như đang vẫy tay với chàng. Tấm huyết thư bằng da dê, mối thù truyền đời đều bị bóng hình của Trương Đan Phong che khuất, chỉ có một ý nghĩ chiếm tâm trí Vân Trọng: “Cần phải đến nhà họ Trương, cứu Trương Đan Phong ra khỏi bàn tay của Tử thần!” Vân Trọng phóng ngựa chạy như bay, chàng hận không thể níu kéo thời gian, may mà vẫn chưa nghe tiếng pháo nổ. Điều đó càng khiến Vân Trọng căng thẳng hơn, càng lo lắng, tựa như một tù nhân đang đợi xử tử, thời gian đã đến nhưng đao phủ thủ vẫn chưa chém xuống, không ai biết khi nào pháo sẽ nổ, nếu muộn nửa bước thì sẽ hối hận suốt đời. Vân Trọng vung roi phóng ngựa đi bỏ Chu Kỳ Trấn ở phía sau, chạy một mạch đến trước cổng nhà họ Trương. Chỉ thấy quân Mông Cổ nằm phục ở dưới đất, một cỗ hồng y đại pháo nhắm thẳng vào nhà họ Trương, họng pháo đang bốc khói. Vân Trọng quát một tiếng vung roi, thớt chiến mã lồng lên nhảy bổ về phía cỗ hồng y đại pháo. Mười tám tùy tùng nhất tề kêu lên: “Sứ giả đại Minh đến!” Trương Đan Phong đang nhắm mắt chờ chết, chợt nghe bên ngoài có tiếng kêu thì kinh hãi, chàng bừng tỉnh, chợt thấy Đàm Đài Diệt Minh vung câu tự sát, thế là giật cây ngô câu của y, kêu lên: “Ông nghe kìa, Vân Trọng đã đến!” Thế rồi cùng nhau nhảy lên bức tường. Trương Tôn Châu chậm rãi mở mắt, nói: “Ai đến?” Trương Đan Phong nói: “Chúng ta sẽ không chết, sứ giả triều Minh đến gặp cha”. Lúc này Trương Tôn Châu đã nghe rõ ràng tiếng ở bên ngoài. Sứ giả triều Minh đến nhà họ Trương, là điều bất ngờ đối với ông ta, Trương Tôn Châu mỉm cười, nhưng lại cúi đầu thở dài. Trương Đan Phong nhảy lên tường, nhìn thấy Vân Trọng phóng ngựa tới, lại thấy họng pháo đang bốc khói. Nỗi tuyệt vọng lại dâng lên khiến cho chàng không thể nào chịu đựng nổi. Đàm Đài Diệt Minh thấy Trương Đan Phong lảo đảo, nói: “Này, công tử sao thế?” Trương Đan Phong định thần, kêu lớn: “Vân Trọng huynh, hãy chạy cho mau, đừng nạp mạng!” Trong lúc nguy hiểm nhất có thể thấy tình bằng hữu chân thành. Trương Đan Phong và Vân Trọng đều gạt cái chết sang một bên, một người vẫn không dừng ngựa, một người kêu lớn, trong khoảnh khắc ấy, chỉ nghe bụp một tiếng vang lên, khói trắng tỏa ra, trái pháo đã thoát khỏi nòng. Vân Trọng kêu thét lên, trong lòng tựa như có một tảng núi lớn đè xuống, chàng đã tuyệt vọng! Chợt nghe tiếng pháo tắt hẳn, chẳng giống như tiếng pháo nổ trên chiến trường, chàng mở mắt ra nhìn chỉ thấy trái pháo bốc khói trắng, chỉ bay được khoảng ba trượng thì rơi xuống đất lăn long lóc chứ không nổ ra. Té ra máu của Thoát Bất Hoa đã chảy vào trong họng pháo, trái pháo đã bị ẩm ướt. Vân Trọng mừng như điên, chàng phóng xuống ngựa chạy đến vỗ cửa, mười tám tùy tùng cũng chạy theo vào. Lúc này Ngạch Cát Đa dù có lớn gan bằng trời cũng không dám bỏ trái pháo thứ hai vào! Trương Đan Phong nhảy xuống tường, mở rộng cửa, hai người ôm chặt nhau, nước mắt rưng rưng, tất cả ân oán đều gởi theo mây gió. Chàng nghe Trương Đan Phong nói: “Cha...”. Vân Trọng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Trương Tôn Châu lảo đảo bước về phía họ. Vân Trọng chợt nhói lòng, té ra người này là cha của Trương Đan Phong, là kẻ mà từ khi chàng ra đời, hiểu biết việc đời ngày đêm luôn căm hận! Kẻ thù của chàng đang nhìn mình, môi mấp máy, tựa như có hàng ngàn hàng vạn lời nhưng không thốt ra được, khuôn mặt già nua có vẻ rất lạ lùng, tựa như đang mong đợi một chuyện gì đó đã rất lâu, tựa như người cha đang đón lấy con trở về nhà. Suốt đời Vân Trọng sẽ không bao giờ quên nét mặt ấy. Vân Trọng đau đớn kêu lên một tiếng, ông già gầy đét, râu tóc bạc phơ ấy đâu có giống một tên gian tặc thâm hiểm như mình tưởng tượng? Chả lẽ mình có thể nhẫn tâm tâm cầm giao đâm vào ngực ông già đang chờ chết ấy? Trương Tôn Châu chầm chậm bước tới từng bước. Vân Trọng chợt nhớ lại bức thư bằng da dê mà lúc nào chàng cũng mang theo bên mình, chàng trừng mắt nhìn Trương Tôn Châu, sau đó quay đầu sang một bên, đẩy Trương Đan Phong ra. Trương Tôn Châu đau như dao cắt lòng, ánh mắt căm hận cứng cỏi trông chẳng khác gì Vân Tĩnh ba mươi năm trước! Trương Tôn Châu đã hiểu tất cả, ông ta rầu rĩ ngồi phịch xuống đất, chỉ thấy Vân Trọng xoay lại, giọng rung rung: “Chuyện đã qua, chúng ta đi thôi”. Trương Đan Phong đứng sững sờ ra nhìn cha, rồi lại nhìn Vân Trọng, chẳng thốt lên được lời nào. Đàm Đài Chính Minh đang đứng nói chuyện với Đàm Đài Diệt Minh, nàng chạy tới nói: “Sao, sao lại phải ra đi?” Bình thường chỉ cần Đàm Đài Chính Minh nói một lời, Vân Trọng sẽ nghe theo, nhưng lúc này chàng tựa như kẻ mất hồn, cứ cắm đầu bước ra cửa. Chợt nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa lọc cọc, đến trước cửa thì ngừng lại, lúc đó có tiếng hô vang lên: “Thiên tử đại Minh giá đáo Trương gia”. Té ra Chu Kỳ Trấn chạy chậm, lúc này mới tới, y tuy chưa thoát khỏi thân phận tù binh nhưng vẫn ra vẻ Hoàng đế. Không ai thèm để ý đến y, Trương Tôn Châu ngồi xuống, chẳng hề nhúc nhích; Đàm Đài Diệt Minh thì trừng y, rồi quay đầu lại, vẫn nói chuyện với muội muội, chỉ có Vân Trọng và tùy tùng của chàng thì đều ngừng bước. Chu Kỳ Trấn tiu nghỉu quát: “Ai là Trương Tôn Châu, tại sao không tiếp giá?” Trương Tôn Châu ngửa đầu lên trời, tựa như chẳng hề biết đến Chu Kỳ Trấn, nhưng y lại nhận ra Trương Đan Phong, thế rồi quay về phía Trương Đan Phong quát hỏi: “Cha ngươi đâu, cha con ngươi là hậu duệ của kẻ phản nghịch, nay trẫm gia ân miễn truy cứu. Sao bọn ngươi không đến tiếp giá?” Trương Đan Phong cười lạnh, Chu Kỳ Trấn thì cảm thấy ánh mắt của chàng nhìn vào tấm áo lông cừu đang khoác trên người, bất giác đỏ mặt, y vốn đang lớn tiếng, nhưng càng nói càng nhỏ, đến mấy chữ sau cùng thì hầu như cả bản thân y cũng không nghe thấy. Trương Đan Phong cười lạnh, chợt lấy ra một bọc đồ ném xuống đất, nói: “Ngươi hãy giữ cho kỹ hai món đồ này, đừng đánh mất nữa!” Bọn vệ sĩ nhặt lên trình trước mặt Chu Kỳ Trấn. Y mở bọc ra xem, trong bọc có hai món đồ, một món là con dấu bằng ngọc của y, quý giá chỉ kém ngọc tỷ truyền quốc; một món là cây trâm ngọc hoàng hậu đã tặng cho y. Chu Kỳ Trấn thẹn quá hóa giận, y chẳng còn mặt mũi gì cả, nhưng nhát gan nên không dám lên tiếng. Đang định trút giận vào Vân Trọng, chợt thấy có ba quái nhân chạy vào như bay, hai người đi trước thì mặt mũi giống nhau, nhưng một người trắng một người đen, tay chân múa may, miệng thì la hét, tựa như không có ai bên cạnh. Ba người này chính là Oanh Thiên Lôi Thạch Anh và Hắc Bạch Ma Ha, quân Mông Cổ rút đi, bọn họ lập tức quét hết tật lê chạy vào. Vệ sĩ của Chu Kỳ Trấn quát: “Cuồng đồ ở đâu, dám kinh động thánh giá!” Thế rồi chạy lên ngăn cản, Thạch Anh liếc mắt nhìn, vung hai tay tóm hai tên vệ sĩ giở lên ném ra ngoài, Hắc Bạch Ma Ha cười ha hả, cũng vung gậy đánh ngã hai vệ sĩ. Chu Kỳ Trấn cả kinh thối lui ra sau, chỉ thấy Hắc Bạch Ma Ha ôm lấy Trương Đan Phong nhảy nhót vui mừng, Thạch Anh thì quỳ xuống trước mặt Trương Tôn Châu. Trương Tôn Châu đỡ Thạch Anh lên, người lảo đảo, cho nên vẫn ngồi xuống. Thạch Anh rơi nước mắt kêu lên: “Chúa công”. Trương Tôn Châu nói: “Thạch tướng quân, mấy mươi năm nay đã thiệt thòi cho ông”. Tổ tiên của Thạch Anh Long kỵ đô úy của Trương Sĩ Thành, cho nên Trương Tôn Châu gọi ông ta là tướng quân. Thạch Anh nói: “Quốc bảo đã trở về với thiếu chủ, nhưng đáng tiếc giang sơn đã mất”. Trương Tôn Châu xua tay, cười khổ nói: “Ta đã biết tất cả, không cần phải nói nữa. Đời người chỉ mong không có chuyện gì thẹn với lòng, tranh bá đồ vương chẳng do mình!” Chu Kỳ Trấn giật mình, chỉ Vân Trọng nói: “Chỉ là bọn lỗ mãng thất phu, không thể gần gũi được. Vân trạng nguyên, khanh hãy mau bảo giá về triều”. Vân Trọng vẫn đứng thẫn thờ, chẳng nói chẳng rằng. Chu Kỳ Trấn quát: “Các người đều điên cả rồi!” Vân Trọng lách qua một bên, dắt theo tùy tùng, lặng lẽ bảo vệ hai bên, vừa bước ra khỏi cổng, chàng đột nhiên ngừng bước, sắc mặt trắng bệt như tờ giấy. Chỉ thấy một thiếu nữ xinh đẹp như hoa đỡ một ông già vẻ mặt tiều tụy, đầu tóc rối bời bước vào cửa. Trên mặt ông già này có nhiều vết đao, một chân thì bị què, nhưng thần khí trên mặt trông rất kinh hãi, Chu Kỳ Trấn bất giác rùng mình. Chỉ nghe Vân Trọng đột nhiên rung giọng nói: “Cha!” Rồi chạy lên phía trước, ôm lấy ông già. Vân Đăng chẳng hề màng đến, ông ta đẩy con trai mình ra, mắt cứ nhìn chằm chằm về phía Trương Tôn Châu, chậm rãi bước dấn tới từng bước. Thần khí đáng sợ ấy khiến cho Thạch Anh cũng né qua một bên. Thạch Anh ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy sau lưng cha con Vân Đăng còn có con gái và con rể của mình. Thạch Anh vội vàng chạy đến đón con, Châu Sơn Dân và Thạch Thúy Phượng cũng không dám lên tiếng, sắc mặt nặng nề. Té ra Vân Đăng vì què một chân, đi đường khó khăn cho nên hôm nay mới đến được kinh thành Ngõa Thích, đến khách sạn hỏi thì mới biết Vân Trọng đã đến nhà họ Trương. Vân Đăng nổi giận, buộc con gái dắt ông ta tới, lúc này nỗi vui mừng vì gặp lại con đã bị nỗi căm hận che khuất. Trong khoảnh khắc, Trương Đan Phong như cảm thấy sấm nổ trong không trung, sắc mặt trở nên tái nhợt. Trước mắt chính là tiểu huynh đệ mà mình ngày nhớ đêm mong. Nhưng Vân Lối không thèm nhìn chàng, chỉ có ánh mắt sắc như dao của Vân Đăng như đang đâm vào tim chàng. Trương Đan Phong kêu lên một tiếng, chàng vốn chẳng sợ trời chẳng sợ đất, nhưng lúc này cũng cảm thấy kinh hoảng đến không thể nói nên lời, thần khí của Vân Đăng lúc này còn đáng sợ hơn cả khi ông ta buộc Vân Lối rời xa mình. Chỉ thấy ông ta chậm rãi bước từng bước đến trước mặt Trương Tôn Châu, tựa như muốn xé xác ông ta. Trương Tôn Châu nhìn lên, chỉ thấy Vân Đăng đã đứng trước mặt, nhìn chằm chằm vào ông ta với ánh mắt lạnh như băng. Vân Đăng đứng chẳng hề nhúc nhích, tựa như một bức tượng bằng đá! Trương Đan Phong và Vân Trọng đồng thời kêu lên nhảy bổ tới, Vân Đăng không thèm quay đầu lại, trở tay đánh một bạt tai vào mặt Vân Trọng, Vân Trọng quỳ xuống đất nói: “Cha, rời khỏi nơi này, rời khỏi nơi này!” Trương Đan Phong cũng đỡ vai Trương Tôn Châu, nói: “Cha, cha hãy quay vào nghỉ ngơi!” Trương Tôn Châu không quay đầu lại, đưa tay đẩy nhẹ Trương Đan Phong ra. Vân Lối cũng không nén được nữa, nàng ôm mặt khóc, thổn thức kêu lên một tiếng “cha”. Vân Đăng chẳng hề nghe, hình như trên đời này chỉ còn lại một mình Trương Tôn Châu, ông ta nhìn trừng trừng vào Trương Tôn Châu, ánh mắt ấy chứa đựng tất cả những nỗi oán thù của cõi nhân gian! Trương Tôn Châu chợt mỉm cười, nói: “Ta đã sớm đoán được sẽ có ngày nay, hôm nay ta sẽ tìm Vân Tĩnh đại nhân để đích thân xin lỗi, như thế mối oan thù giữa hai nhà chúng ta coi như đã tiêu tan!” Giọng nói càng lúc càng yếu, nói đến chữ cuối cùng thì đột nhiên ngã người ra phía sau, tai và mũi đều chảy máu, người thì đã cứng đờ. Té ra Trương Tôn Châu đã muốn chết từ lâu, sau khi thấy Vân Trọng thì đã len lén nuốt thuốc độc, loại thuốc độc này có chứa bột hạt đỉnh hồng, cũng là loại thuốc nam xưa Vương Chấn đã cho Vân Tĩnh uống, dù có linh đơn diệu dược cũng không thể nào cứu nổi. Tất cả mọi người đều không ngờ Trương Tôn Châu đã uống thuốc độc tự sát. Sắc mặt Trương Đan Phong sám ngoét như xác chết, đôi mắt đờ đẫn, chẳng thể nào khóc ra tiếng nổi. Vân Lối kêu thảm một tiếng, ngã xuống đất. Vân Đăng cũng tiu nghỉu ngồi xuống như quả bóng da bị xì hơi. Đàm Đài Diệt Minh và Thạch Anh kêu lên một tiếng “chúa công”, Vân Trọng nhảy tới đỡ Trương Đan Phong, Trương Đan Phong đột nhiên ôm mặt vùng chạy, nhảy lên con Chiếu dạ sư tử mã, con ngựa đang gặm cỏ thì đột nhiên tung vó chạy ra ngoài, trong chớp mắt đã khuất dạng. Bên trong im lặng như tờ, chỉ có tiếng khóc thút thít của Vân Lối. Hai tháng sau, Giang Nam bắt đầu vào hạ, trời quang mây tạnh, bên ngoài thành Kế Châu có một thiếu niên cỡi con ngựa trắng. Thời gian hai tháng không phải là dài, nhưng thế cuộc đã một phen đổi thay. Sau khi Chu Kỳ Trấn được Vân Trọng rước về, em của Chu Kỳ Trấn, tức là đương kim Hoàng đế Chu Kỳ Ngọc không chịu nhường ngôi, Chu Kỳ Trấn vừa trở về thì bị y nhốt ở nam cung, phong làm Thái thượng hoàng, nhưng thực tế là một kẻ tù nhân. Giấc mộng làm Hoàng đế của Chu Kỳ Trấn tiêu tan, giấc mộng chỉnh đốn quốc gia của Vu Khiêm cũng tiêu tan, bởi vì Chu Kỳ Ngọc không cần dựa vào Vu Khiêm nữa, y đoạt quyền bính của ông ta, cho ông ta làm Binh bộ thượng thư nhưng không nắm thực quyền. Bè đảng Vương Chấn không còn, nhưng những bè phái mới lại xuất hiện. Lúc bấy giờ vua tôi nhà Minh đã chìm đắm trong hoan lạc, đã quên đi nỗi nhục thành Thổ Mộc, quên đi mối nguy của quốc gia. Trương Đan Phong thất ý nơi tình trường, lại gặp phải nạn nhà, lại thêm đau lòng cho chuyện nước, chàng âm thầm trốn ở Bắc Kinh mấy ngày, sau đó một mình cỡi ngựa trở về Giang Nam. Phong cảnh Giang Nam không giải được nỗi sầu trong lòng nàng, chàng chậm rãi dong ngựa vào thành Tô Châu, chợt chàng ngửa mặt ngâm rằng: “Thiên đạo vô thường nhân sự cải, giang sơn nghịch kiếp thừa tân sầu!” Rồi chàng lấy ra một bức thư đẫm nước mắt, chàng đã đọc bức thư này mấy trăm lần, không cần nhìn chàng cũng có thể nhớ được. Đây chính là bức thư Trương Tôn Châu trước khi chết đã âm thầm giấu vào trong áo của chàng. Thư viết rằng: Năm xưa cha vì sai lầm một lúc nên kết oán với nhà họ Vân. Ta tuy không giết bá nhân nhưng bá nhân chết vì ta, con cháu của Vân Tĩnh coi ta như kẻ thù là điều đương nhiên. Nay ta quyết lấy cái chết chuộc tội, không phải vì nhà họ Vân cũng vì không còn mặt mũi nào trở về cố quốc. Con người sẽ phải chết, lúc tuổi đã về chiều mà ta có thể thấy được sứ thần của đại Hán uy phong nơi nước người, chết cũng không có gì nuối tiếc. Con giỏi hơn ta gấp trăm lần, có con như thế ta cũng chẳng có điều gì nuối tiếc nữa. Sau khi ta chết con hãy lập tức trở về nước, giải mối hiềm khích với nhà họ Vân, chuộc tội cho ta. Đàm Đài tướng quân đã cho ta biết chuyện con và cháu gái của Vân Tĩnh thương yêu nhau. Nếu chuyện này mà thành, ta càng chẳng hối tiếc. Hình bóng của cha già hiện lên trong lòng Trương Đan Phong, cha đã từng làm sai nhưng cũng đã từng làm đúng, cha giúp Ngõa Thích cường thịnh, nhưng cũng âm thầm giúp tổ quốc đánh bại Dã Tiên. Lúc còn nhỏ Trương Đan Phong cảm thấy không thể nào hiểu được, nhưng giờ đây chàng đã hoàn toàn hiểu. Trương Đan Phong thầm đọc lại bức thư, một hình ảnh khác lại hiện lên, đó là Vân Lối, cha chàng mong muốn chàng và Vân Lối có thể kết hợp với nhau! Nhưng sau sự kiện đau lòng này, có lẽ suốt đời này hai người chẳng thể nào gặp nhau nữa chứ đừng nói đến chuyện hôn nhân! Hai tháng nay lúc nào Trương Đan Phong cũng âu sầu, suýt nữa đã rơi vào tình cảnh điên dại. Lần này trở về là muốn nhờ cảnh sắc Giang Nam giải cơn sầu, nào ngờ vừa tới Giang Nam thì càng nhớ tới Vân Lối, lúc hai người còn đi bên nhau thì mơ đã vàng, hoa lựu bên đua nở, còn lòng người thì vui buồn lẫn lộn. Cổ thành như tranh vẽ, cảnh sắc vẫn như xưa, Trương Đan Phong không khỏi thở dài: “Tiểu huynh đệ, tất cả đều đã quá muộn!” Chợt nghe tiếng cười khúc khích, bên tai Trương Đan Phong tựa như nghe tiếng Vân Lối nói: “Ai nói quá muộn; sao huynh không chờ muội?” Trương Đan Phong quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Vân Lối đang cỡi thớt ngựa hồng, miệng vẫn nhoẻn cười như năm xưa. Đây là giấc chiêm bao hay đời thực? Trương Đan Phong vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chỉ thấy Vân Lối vỗ ngựa tới, mỉm cười vẫy tay nói: “Ca ca ngốc, huynh không nhận ra muội sao?” Ồ, đây không phải là giấc chiêm bao! Trương Đan Phong mừng như điên, kêu lên: “Tiểu huynh đệ, đúng là đệ! Quả thật không quá muộn!” Vân Lối nói: “Muộn cái gì? Chẳng phải huynh đã từng nói dù đường xa như thế nào cũng sẽ tới hay sao? Huynh nhìn kìa, không những muội tới, họ cũng đã tới!” Trương Đan Phong ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Vân Đăng đang ngồi trên lưng ngựa mỉm cười nhìn họ, khuôn mặt đầy vết đao nhưng rất hiền từ, chẳng còn thần sắc oán hận nữa. Ông ta kìm ngựa rồi nhảy xuống, trông rắn rỏi vô cùng, té ra Vân Trọng đã chữa trị đôi chân cho ông ta, sau sự biến ấy, ông ta không còn oán hận nữa, lại biết nỗi khổ tâm của Trương Đan Phong, nay chuyện của đời trước đã được đời trước kết thúc, còn có gì đáng nói nữa! Sau lưng Vân Đăng còn có vài thớt ngựa, đó chính là Vân Trọng và mẹ của chàng, Đàm Đài Diệt Minh cùng Đàm Đài Chính Minh cũng tới, mọi người đều mỉm cười. Đàm Đài Chính Minh vỗ ngựa bước tới đi song song với Vân Trọng, vung roi nói: “Đan Phong, Khoái Hoạt lâm đã thay đổi, công tử có vào thành không?” Trương Đan Phong như tỉnh giấc mơ, chàng thì thầm nói: “Tiểu huynh đệ, đệ có vào thành không?” Vân Lối mỉm cười, bao nhiêu oán thù đều tan biến. Đó chính là: Doanh doanh nhất tiếu, tận bã ân thù liễu. Cản thượng Giang Nam xuân vị tra, xuân sắc hoa dung tương chiếu. Tạc tiêu khổ vũ liên miên, kim triều lễ nhật tình thiên, sầu tự đô tùy liễu thứ, tùy phong hóa tác khinh yên. Dịch nghĩa: Một nụ cười đã kết thúc mọi ân thù. Khi đến Giang Nam xuân vẫn chưa tàn, sắc xuân ngời lên mặt người. Đêm qua mưa dầm liên miên, sáng nay trời quang mây tạnh, nỗi sầu biến thành làn khói mỏng bay theo gió. HẾT