Krantz đã kiểm tra được năm căn phòng ngủ khi Arabella mời các vị khách của mình sang phòng khách để dùng cà phê. Vẫn còn chín phòng nữa, và Krantz hiểu rõ rằng không những cô ta chẳng còn nhiều thời gian, mà đồng thời cô ta cũng chẳng thể có một cơ hội thứ hai. Cô ta vội di chuyển sang căn phòng bên cạnh, mà ai đó đã mở cửa sổ để đón gió. Cô ta bật đèn pin lên, và được đón tiếp bằng cái nhìn lạnh lùng của vị Công tước Thép. Cô ta di chuyển tới bức tranh khác, cũng là lúc ông Nakamura đặt cốc cà phê xuống chiếc bàn con bên cạnh và đứng dậy. “Tôi nghĩ đã đến lúc tôi nên đi ngủ, thưa Phu nhân”, ông ta nói, “nếu không, những anh chàng ngốc ở công ty thép Corns Steel sẽ nhận ra rằng tôi ăn nói không còn sắc bén”. Ông ta quay sang Anna. “Tôi mong chờ được gặp lại cô vào sáng mai, khi chúng ta có thể thảo luận trong bữa ăn sáng về những ý tưởng của cô trong việc phát triển bộ sưu tập của tôi, và có thể là cả chuyện lương bổng của cô nữa”. “Nhưng ngài đã nói rõ là tôi đáng giá là bao nhiêu rồi mà”, Anna nói. “Tôi không nhớ”, Nakamura nói và trông ông ta có vẻ bối rối. “Ồ, vâng”, Anna nói và mỉm cười. “Tôi nhớ rất rõ là Fenston đã thuyết phục ngài tin rằng tôi đáng giá 500 đôla một ngày”. “Cô đã lợi dụng người già”, Nakamura vừa nói vừa mỉm cười, “nhưng tôi sẽ không rút lại những lời nói của mình”. Krantz nghĩ cô ta nghe thấy tiếng một chiếc cánh cửa được đóng lại và không nhìn lại Wellington lần thứ hai, cô ta lẻn vội ra ban công. Cô ta phải cần tới con dao của mình để đột nhập căn phòng tiếp theo. Cô ta rón rén bước qua phòng, và dừng lại ở đuôi giường. Cô ta bật đèn pin lên, nghĩ là sẽ được đón tiếp bằng một bức tường trống không. Nhưng không phải. Đôi mắt dài dại của một thiên tài đang nhìn cô ta chằm chằm. Đôi mắt điên dại của kẻ sát nhân nhìn trả lại. Krantz mỉm cười lần thứ hai trong ngày. Cô ta trèo lên giường và chầm chậm bò về phía nạn nhân tiếp theo của mình. Khi còn cách bức tranh vài inch, cô ta rút dao ra khỏi bao, giơ lên cao khỏi đầu và chuẩn xọc lưỡi dao vào cổ Van Gogh thì cô ta nhớ lại những gì mà cô ta cần làm theo chỉ đạo của Fenston để được lĩnh bốn triệu đôla thay vì chỉ được lĩnh ba triệu. Cô ta tắt đèn pin, bò xuống và chui vào gầm giường. Cô ta nằm ngửa mình lên và chờ đợi. Khi Arabella và các vị khách rời phòng khách và bước ra hành lang, bà hỏi Andrews xem Brunswick và Picton đã trở lại chưa. “Chưa, thưa Phu nhân”, người quản gia trả lời, “nhưng đêm nay có rất nhiều thỏ ra ngoài kiếm ăn”. “Vậy thì để tôi đích thân đi gọi mấy tên hư đốn đó”, Arabella nói rồi quay sang phía các vị khách. “Chúc ngủ ngon, tôi sẽ gặp lại hai người vào bữa ăn sáng ngày mai”. Nakamura cúi chào trước khi đưa Anna đi lên cầu thang, và chốc chốc hai người lại dừng chân để ngắm nhìn các vị tổ tiên của Arabella. Họ cũng trả lại hai người những cái nhìn chằm chằm. “Xin cô hiểu cho tôi, Anna”, ông ta nói, “vì tôi sẽ không có cơ hội được gặp lại các quý ông này lần thứ hai”. Anna mỉm cười và bước đi, để ông Nakamura đứng lại ngắm nhìn Bà Siddons của Romney. Cô tiếp tục đi dọc hành lang, và dừng lại bên ngoài phòng Van Gogh. Cô mở cửa căn phòng ra và bật đèn lên, rồi dừng lại một lát để ngắm nhìn chân dung Van Gogh. Cô cởi váy ra và treo vào tủ quần áo, rồi cô đặt những quần áo còn lại của mình lên chiếc ghế sô pha ở chân giường. Sau đó cô bật ngọn đèn ở cạnh giường lên và xem đồng hồ. Vừa qua mười một giờ. Cô đi vào phòng tắm. Khi Krantz nghe thấy tiếng nước chảy từ một chiếc vòi hoa sen, cô ta bò ra khỏi gầm giường và quỳ bên cạnh giường. Cô ta giỏng tai lên, giống một con thú đang đánh hơi trong gió. Vòi nước vẫn đang chảy. Cô ta đứng lên, bước tới cửa và tắt chiếc bóng đèn trong phòng ngủ, trong khi vẫn để ngọn đèn đọc sách bên cạnh giường. Cô ta nhấc đầu tấm chăn phía bên kia giường, cẩn thận trèo lên và chui vào chăn. Cô ta nhìn Van Gogh lần cuối, trước khi kéo chăn lại che kín đầu. Krantz nằm yên không động đậy. Cô ta nhỏ con tới mức gần như biến mất trong thứ ánh sáng mờ mờ. Cho dù đang ẩn mình dưới lớp chăn, cô ta vẫn nghe rõ tiếng vòi nước được vặn lại. Tiếp đến là sự yên lặng. Chắc Anna đang lau khô người, rồi cô ta nghe thấy tiếng một chiếc công tắc được tắt - đèn phòng tắm, tiếp đến là tiếng một chiếc cánh cửa được khép lại. Krantz rút con dao từ trong chiếc bao ra và nắm chặt cán dao khi Anna bước trở ra phòng ngủ. Anna chui xuống dưới chăn phía giường của cô và xoay mình sang một bên, vươn một cánh tay để tắt ngọn đèn bên cạnh giường. Cô ngả đầu xuống chiếc gối lông ngỗng mềm mại. Khi chuẩn bị bước vào giấc ngủ, những suy nghĩ cuối cùng của cô là bữa tiệc thật tuyệt vời. Ông Nakamura không những đã quyết định chuyện mua bán, mà còn mời cô về làm việc. Cô còn cần gì hơn thế? Anna đang trong trạng thái chợp chờn khi Krantz nhoài người sang bên và sờ vào lưng cô bằng đầu ngón tay trỏ. Cô ta rê ngón tay dọc xương sống Anna xuống mông cô, dừng lại trên đùi cô. Anna thở ra một hơi dài. Krantz dừng lại vài giây, trước khi cho tay vào giữa hai đùi Anna. Cô đang mơ ngủ, hay có ai đó sờ vào cô, Anna băn khoăn tự hỏi trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Cô nằm yên. Không thể có chuyện có ai đó đang nằm trên giường cùng cô. Chắc chắn là mơ. Đó là lúc cô cảm thấy cái lạnh của một lưỡi dao bằng thép khi nó luồn vào giữa hai đùi cô. Thình lình Anna tỉnh như sáo, tất cả các suy nghĩ đều chạy khỏi đầu cô. Cô vừa chuẩn bị tung chăn ra và lăn xuống sàn thì một giọng nói cất lên, nhỏ nhưng rõ ràng, “Đừng nghĩ tới chuyện cử động, dù chỉ là một sợi gân; mày có một con dao dài sáu inch ở giữa hai đùi, và lưỡi dao hướng lên”. Anna nằm yên. “Nếu mày lên tiếng, dù chỉ là thì thầm, tao sẽ rạch đôi mày từ háng lên họng, và mày sẽ chỉ có đủ thời gian để ước được chết”. Anna cảm thấy cái lạnh của lưỡi dao bằng thép giữa hai đùi cô và cố không động đậy, cho dù người cô vẫn run lên. “Nếu mày nghe theo chỉ dẫn của tao”, Krantz nói, “thì mày có thể sống, nhưng đừng tin lắm vào điều đó”. Anna không tin, và biết rằng nếu muốn có cơ hội sống sót, cô phải kéo dài thời gian. “Cô muốn gì?” Anna hỏi. “Tao đã bảo là không được mở miệng”, Krantz nói và đẩy con dao lên cho đến khi lưỡi dao chỉ còn cách âm vật của cô một xentimét. Anna không dám nói gì thêm. “Có một ngọn đèn bên cạnh giường ở phía mày”, Krantz nói. “Hãy vươn người ra, rất chậm và bật nó lên”. Anna vươn người ra và cảm thấy lưỡi dao di chuyển cùng cô khi cô bật ngọn đèn lên. “Tốt”, Krantz nói. “Bây giờ tao sẽ kéo phần chăn phía mày, trong khi mày phải nằm yên. Tao sẽ không rút dao ra – chưa đến lúc”. Anna nhìn chằm chằm về phía trước mặt cô, trong khi Krantz chầm chậm kéo chăn phía cô ra. “Bây giờ hãy co gối lên trước ngực”, Krantz nói, “chậm thôi”. Anna làm theo lệnh cô ta, và lại cảm thấy lưỡi dao di chuyển cùng cô. “Bây giờ ngồi dậy trên đầu gối và nhìn vào bức tường trước mặt mày”. Anna tì khuỷu tay trái lên giường, đẩy mình ngồi dậy một cách chầm chậm trên đầu gối và xoay mình từng inch một cho đến khi cô đối diện với bức tường. Cô nhìn chằm chằm vào Van Gogh. Khi cô nhìn thấy chiếc tai bị băng, cô không thể không nhớ tới những gì mà Krantz đã làm đối với Victoria. Krantz lúc này đang quỳ ngay sát phía sau cô, tay vẫn cầm chặt cán dao. “Từ từ cúi về phía trước”, Krantz nói, “và cầm lấy hai bên khung bức tranh”. Anna làm theo lệnh của cô ta, trong khi từng chiếc cơ trên người cô đều run lên. “Bây giờ nhấc bức tranh ra khỏi móc treo và từ từ đặt nó xuống gối”. Anna gắng sức để làm theo mệnh lệnh của cô ta, dù cô đã bủn rủn cả chân tay. Cô đặt bức tranh xuống gối. “Bây giờ tao sẽ lấy con dao ra khỏi háng mày, rất chậm, trước khi gí lưỡi dao vào cổ mày. Đừng tính đến chuyện cử động khi con dao được rút ra, bởi vì nếu mày ngu xuẩn đến mức thử làm điều gì đó, tao xin đảm bảo với mày rằng tao chỉ cần không đầy ba giây để giết mày, và mười giây để thoát ra từ chiếc cửa sổ kia. Tao muốn mày nghĩ về điều đó trước khi tao rút lưỡi dao ra”. Anna nghĩ về điều đó, và không nhúc nhích. Vài giây sau, cô cảm thấy lưỡi dao đã được rút ra khỏi hai chân mình, và chỉ tích tắc sau, lưỡi dao đã kề vào cổ cô. “Nâng bức tranh lên khỏi chiếc gối”, Krantz ra lệnh, “rồi quay lại và nhìn tao. Hãy nhớ rằng lưỡi dao sẽ không bao giờ rời cách họng mày quá vài inch. Bất kỳ một cử động nào, và tao muốn nhấn mạnh là bất kỳ một cử động nào mà tao cho là khả nghi, sẽ là cử động cuối cùng của mày”. Anna tin lời cô ta. Cô cúi xuống, nâng bức tranh lên khỏi chiếc gối và chầm chậm xoay mình trên hai đầu gối cho đến khi cô đối diện với Krantz. Khi Anna lần đầu tiên nhìn thấy cô ta, cô ngạc nhiên trong một giây lát thoáng qua. Người phụ nữ này trông thật bé nhỏ, thậm chí có vẻ dễ bị tổn thương – một nhận định sai lầm mà nhiều người đàn ông đã mắc phải trong quá khứ – quá khứ của họ. Sergei còn không thể hạ được Krantz thì cô còn có cơ hội gì? Suy nghĩ lạ lùng ấy lướt qua đầu Anna trong khi cô chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo của cô ta. Tại sao cô lại từ chối khi Andrews đề nghị đem cho cô một cốc cacao lên phòng trước khi cô đi ngủ? “Bây giờ tao muốn mày xoay bức tranh lại để nó nhìn thẳng vào tao”, Krantz nói, “và đừng rời mắt khỏi con dao”, cô ta nói thêm rồi nhấc con dao khỏi họng cô và giơ lên cao khỏi đầu. Trong khi Anna xoay bức tranh lại, Krantz giữ con dao chĩa thẳng vào vị trí mà cô ta thường chọn. “Nắm chặt lấy khung tranh”, Krantz nói, “bởi vì bạn mày, ông Van Gogh, sắp mất thêm một cái tai nữa”. “Nhưng tại sao?” Anna kêu lên, cô không thể cố im lặng được nữa. “Tao thấy vui là mày đã hỏi”, Krantz nói, “bởi vì mệnh lệnh của ông Fenston không thể rõ ràng hơn. Ông ấy muốn mày là người cuối cùng được nhìn thấy bức tranh này trước khi nó bị đi tiêu”. “Nhưng tại sao?” Anna lặp lại. “Bởi vì ông Fenston không thể có bức tranh cho riêng mình, ông ấy muốn đảm bảo rằng chẳng ai có thể sở hữu nó”, Krantz nói, lưỡi dao chỉ cách cổ họng Anna vài inch. “Bao giờ cũng là sai lầm nếu làm trái ý ông Fenston. Thật tiếc khi mày không có cơ hội để nói lại với bạn mày là Phu nhân Arabella về những gì mà ông Fenston sẽ dành cho bà ta”. Krantz dừng lại. “Nhưng tao có cảm giác ông ấy không phiền lòng nếu tao nói cho mày biết. Một khi bức tranh này đã bị phá huỷ – thật đáng tiếc là bà ta không có tiền để mua bảo hiểm cho nó, thì đó cũng là lúc ông Fenston sẽ bắt đầu bán các bức tranh còn lại trong bộ sưu tập của Lâu đài này cho đến khi bà ta thanh toán hết nợ. Cái chết của bà ta, không giống như cái chết của mày, sẽ diễn ra một cách từ từ và dai dẳng. Người ta phải khâm phục đầu óc tư duy lôgíc và gẫy gọn của ông Fenston”. Cô ta dừng lại lần nữa. “Tao sợ không còn thời gian, cả cho mày lẫn cho ông Van Gogh”. Krantz bất ngờ giơ cao con dao khỏi đầu và xọc mạnh lưỡi dao xuống bức tranh. Anna cảm nhận được rằng Krantz đã dồn toàn lực để làm việc đó khi cô ta rạch qua cổ Van Gogh, và bằng tất cả sức lực của mình, tiếp tục đẩy lưỡi dao cho đến khi cô ta đã tạo nên một vòng tròn không đều, cuối cùng làm chiếc đầu của Van Gogh rơi ra, để lại một lỗ hổng nham nhở ở giữa bức tranh. Krantz hơi ngửa người ra để chiêm ngưỡng chiến tích của mình, và cho phép mình được tự mãn trong giây lát. Cô ta cảm thấy mình đã hoàn thành hợp đồng với Fenston, và giờ đây, khi Anna đã chứng kiến toàn bộ cảnh này, đã đến lúc cô ta kết thúc mọi chuyện để lĩnh bốn triệu đôla tiền công và tiền thưởng. Anna nhìn chiếc đầu Van Gogh rơi xuống tấm ga cạnh cô, không một giọt máu. Khi Krantz ngồi thẳng lên để tận hưởng chiến thắng của mình, Anna nâng chiếc khung tranh lên và đập thẳng xuống đầu cô ta. Nhưng Krantz nhanh hơn cô tưởng; cô ta xoay mình và giơ tay trái lên đỡ. Anna nhảy xuống giường khi Krantz gạt chiếc khung tranh xuống và nhoài người về phía trước. Anna đã kịp đứng dậy và thậm chí đã nhảy được một bước về phía cửa trước khi Krantz lao theo và đâm lưỡi dao và chân cô. Anna loạng choạng và ngã xuống, chỉ cách cánh cửa vài inch, máu phun ra từ vết thương. Krantz chỉ cách cô một bước chân khi tay Anna chạm vào tay cầm trên cánh cửa, nhưng quá muộn. Krantz đã nhảy chồm lên cô trước khi cô kịp xoay tay cầm. Krantz túm lấy tóc Anna và kéo cô ngã xuống sàn. Krantz giơ con dao lên, và những từ cuối cùng mà Anna nghe là: “Lần này là chuyện cá nhân”. Krantz vừa chuẩn bị thực hiện cú cắt họng theo nghi lễ quen thuộc của cô ta thì cánh cửa mở toang. Không phải là người quản gia với một cốc cacao, mà là một phụ nữ với khẩu súng săn dưới cánh tay phải, đôi bàn tay và chiếc áo dài của bà nhuộm đầy máu. Trong một giây lát thoáng qua, Krantz cứng người khi cô ta nhìn thấy Phu nhân Victoria Wentworth. Không đúng là cô ta đã giết chết người đàn bà này rồi sao? Trước mặt cô ta là ma ư? Krantz chần chừ, như bị thôi miên, khi con ma tiến lại phía cô ta. Krantz không rời mắt khỏi Arabella, trong khi vẫn nắm chặt con dao, lưỡi dao chỉ cách cổ họng Anna vài inch. Arabella nâng khẩu súng lên khi Krantz lùi lại, kéo theo con mồi của mình trên sàn về phía cửa sổ. Arabella lên cò. “Chỉ cần một giọt máu nữa”, bà nói, “và tao sẽ bắn mày thành một đống thịt vụn. Tao sẽ bắt đầu từ hai chân của mày, và sau đó tao sẽ dành ổ đạn thứ hai cho cái bụng của mày. Nhưng tao sẽ chưa bắn chết mày ngay. Không, tao hứa sẽ dành cho mày một cái chết từ từ, đau đớn, và tao sẽ không gọi cứu thương cho đến khi tao biết chắc rằng họ chẳng thể làm gì để cứu mày”. Arabella hơi hạ nòng súng xuống và Krantz lưỡng lự. “Thả cô ta ra”, bà nói, “và tao sẽ không bắn”. Arabella chờ đợi. Bà ngạc nhiên khi thấy Krantz có vẻ hoảng hốt như vậy, trong khi Anna lại có vẻ khá điềm tĩnh. Bất ngờ Krantz bỏ tóc Anna ra và lăn mình qua cửa sổ ra ban công. Arabella nâng súng lên và bắn về phía cái bóng đang chuyển động. Đạn thổi bay cánh cửa sổ và để lại một lỗ hổng lớn. Arabella lao về lỗ hổng đang toả khói ấy và gọi, “Andrews, nhanh lên”, như thể bà đang đi săn gà lôi. Một giây sau, đèn pha bảo vệ được bật lên và bãi cỏ trước Lâu đài ngập trong ánh sáng giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm, nhưng chỉ có một cầu thủ đang lao về phía cầu gôn. Đôi mắt Arabella bám theo cái bóng đen nhỏ đang chạy hình chữ chi qua bãi cỏ. Arabella nâng súng lên lần thứ hai, tì chặt báng vào vai, ngắm nhìn, hít sâu một hơi và kéo cò. Tích tắc sau, Krantz ngã xuống đất, nhưng vẫn cố bò về phía bức tường. “Chết tiệt”, Arabella nói, “tôi chỉ bắn trúng cánh nó”. Bà chạy ra khỏi phòng, lao xuống cầu thang và kêu to trước khi xuống đến tầng trệt, “Hai các tút đạn nữa, Andrews”. Andrews mở cánh cửa trước bằng tay phải và đưa cho bà chủ hai các tút đạn bằng tay trái. Arabella nhanh chóng nạp đạn trước khi nhảy xuống các bậc cầu thang và chạy về phía bãi cỏ. Bà chỉ còn nhìn thấy một cái bóng đen rất nhỏ đang đổi hướng chạy về phía cổng, nhưng bà nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với Krantz. Sau khi Krantz đã nằm trong tầm ngắm, bà dừng lại giữa bãi cỏ. Bà nâng súng lên và tì vào vai. Bà lấy mục tiêu và vừa chuẩn bị bóp cò thì thình lình từ đâu có ba chiếc xe cảnh sát và một chiếc xe cứu thương lao qua cổng, ánh đèn pha làm bà loá mắt và không nhìn thấy mục tiêu đâu nữa. Chiếc xe đầu tiên phanh khựng lại ngay sát chân bà, và khi nhận ra người vừa bước xuống xe, bà miễn cưỡng hạ khẩu súng xuống. “Chào ông chánh thanh tra”, bà vừa nói vừa đưa tay che ngang trán để ngăn dòng ánh sáng đang chĩa thẳng vào bà. “Chúc một buổi tối tốt lành, Arabella”, viên chánh thanh tra cảnh sát đáp lời, như thể ông ta đã đến muộn vài phút trong một tiệc rượu nhỏ mà bà tổ chức. “Mọi thứ đều ổn chứ?” ông ta hỏi. “Đều ổn trước khi ông tới đây”, Arabella nói, “và thò mũi vào công việc của người khác. Và cho phép tôi hỏi, làm sao ông có thể tới đây nhanh như thế?” “Bà có một người bạn Mỹ, Jack Delaney, để cảm ơn về điều đó”, viên chánh thanh tra cảnh sát nói. “Anh ta cảnh báo với chúng tôi rằng có thể bà cần một vài sự giúp đỡ. Vì vậy chúng tôi đã theo dõi khu vực này suốt một giờ qua. “Tôi không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào”, Arabella nói và lại nâng khẩu súng lên. “Nếu ông cho tôi yên thêm được vài phút, tôi đã kết liễu đời nó, và vui sướng được đối mặt với những hậu quả”. “Tôi không hiểu bà đang nói gì”, viên chánh thanh tra cảnh sát nói rồi quay trở lại chiếc xe và tắt đèn pha. Chiếc xe cứu thương và hai chiếc xe cảnh sát còn lại không thấy đâu nữa. “Ông đã để nó chạy mất, đồ ngu”, Arabella vừa nói vừa nâng súng lên lần thứ ba, cũng là lúc ông Nakamura xuất hiện bên cạnh bà trong bộ quần áo ngủ. “Tôi nghĩ Anna –” “Ôi, Chúa ơi”, Arabella nói rồi quay mình chạy vào trong toà nhà, không thèm để ý đến viên chánh thanh tra cảnh sát. Bà tiếp tục chạy lên các bậc thềm, qua cửa, trước khi lao lên cầu thang, và không dừng lại cho đến khi tới căn phòng khách dành cho Anna. Bà thấy Andrews đang quỳ trên sàn, và đang băng bó vết thương ở chân Anna một cách thành thục. Ông Nakamura lao qua cửa. Ông ta dừng lại một lát để lấy hơi trước khi nói, “Trong nhiều năm, Arabella, tôi vẫn cứ băn khoăn không biết trong một bữa tiệc kiểu thôn dã của Anh quốc sẽ có những gì”, Ông ta dừng lại. “Giờ thì tôi đã biết rõ”. Arabella cười phá lên, và quay sang phía Nakamura. Ông ta đang nhìn chằm chằm vào bức tranh trên sàn nhà bên cạnh chiếc giường. “Ôi, Chúa ơi”, Arabella kêu lên khi ánh mắt bà dừng lại trên bức tranh. “Thằng Fenston con hoang kia cuối cùng đã cũng đã đánh bại chúng ta. Bây giờ tôi hiểu tại sao hắn lại tự tin đến thế về việc tôi sẽ buộc phải bán hết tất cả những gì còn lại trong bộ sưu tập của mình, và thậm chí cuối cùng sẽ mất luôn cả Lâu đài này”. Anna chầm chậm đứng lên và ngồi xuống đuôi giường. “Tôi không nghĩ như vậy”, cô nói và nhìn thẳng vào chủ nhà. Arabella trông có vẻ ngạc nhiên. “Nhưng Phu nhân hãy cảm ơn Andrews về điều đó”. “Andrews à?” Arabella lặp lại. “Đúng vậy. Ông ấy đã cảnh báo với tôi rằng sáng mai ngài Nakamura sẽ phải rời khỏi Lâu đài từ rất sớm nếu muốn kịp giờ hẹn với hãng Corns Steel, và Andrews gợi ý rằng nếu tôi không muốn bị đánh thức vào một cái giờ không thích hợp, thì có lẽ ông ấy nên lấy bức tranh đi trong lúc chúng ta còn đang ăn tối. Điều đó không những cho phép người của ông ấy trả bức tranh vào khung tranh gốc mà còn giúp họ có đủ thời gian để đóng gói bức tranh, chuẩn bị sẵn sàng để ông Nakamura có thể đem đi vào sáng sớm ngày mai”. Anna dừng lại. “Tôi nói với Andrews rằng có thể Phu nhân sẽ không được hài lòng nếu ông ấy làm trái ý Phu nhân, trong khi rõ ràng tôi đã lợi dụng lòng hiếu khách của Phu nhân. Tôi nghĩ mình vẫn còn nhớ chính xác những lời của Andrews”, Anna nói. “‘Nếu cô cho phép tôi thay kiệt tác ấy bằng bức tranh nhái, tôi tin là Phu nhân sẽ không để ý’.” Đó là một trong những lần hiếm hoi trong suốt bốn mươi chín năm qua, Andrews được chứng kiến cảnh bà chủ của mình phải nghẹn lời không nói nên lời. “Tôi nghĩ Phu nhân nên sa thải ông ấy ngay lập tức vì tội không nghe lời”, Nakamura nói, “để tôi có thể mời ông ấy về chỗ tôi làm. Nếu ông chấp nhận”, ông ta vừa nói vừa quay sang Andrews, “tôi sẵn lòng trả ông một mức lương cao gấp đôi hiện nay”. “Không có hy vọng”, Arabella nói, trước khi người quản gia có cơ hội trả lời. “Andrews là một kho báu quốc gia mà tôi sẽ không bao giờ chịu mất”.