Khi Krantz tỉnh dậy sau cuộc phẫu thuật, điều đầu tiên mà cô ta nhận thấy là cảm giác đau buốt ở vai phải. Cô ta cố nhấc đầu khỏi gối vài inch và nhìn quanh căn phòng nhỏ được sơn trắng: chỉ có những đồ vật thật cần thiết - một chiếc giường, một chiếc tủ, một tấm ga, một chiếc chăn và một chiếc quạt nhỏ để giường. Chắc là bệnh viện, nhưng không phải là bệnh viện tư, bởi vì không có cửa sổ, không có hoa, không đồ ăn thức uống. Krantz cố nhớ lại những gì đã xảy ra với cô ta. Cô ta nhớ là khẩu súng của người tài xế tắc xi đã chĩa thẳng vào tim cô ta, và chỉ nhớ được có thế. Cô ta chỉ có đủ thời gian để quay đi 1 inch, không hơn, trước khi viên đạn xé bả vai cô ta. Chưa bao giờ cô ta phải đối mặt với thần chết ở cự ly gần đến thế. Viên đạn thứ hai bị trượt hoàn toàn, nhưng cô ta đã có được khoảng thời gian một giây giữa hai lần bắn của người tài xế tắc xi, đủ để cô ta cắt đứt họng ông ta. Chắc chắn ông ta là một người trong nghề, một cựu sỹ quan cảnh sát, cũng có thể là một cựu binh. Cô ta chỉ nhớ được có thế, bởi vì sau khi kịp cắt họng ông già, chắc chắn cô ta đã ngất đi. Jack đăng kỷ ngủ qua đêm tại Wentworth Arms, và đặt một bàn ăn tối vào lúc 8 giờ. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, anh mong đợi phút giây được nghiến ngấu một tảng bít tết to dày. Cho dù chắc chắn Anna đã ngủ lại Lâu đài Wentworth, Jack vẫn không thể yên tâm khi anh nghĩ tới chuyện Người Lùn có thể đang lảng vảng đâu đây. Anh đã yêu cầu Tom thông báo cho cảnh sát địa phương, trong khi bản thân anh vẫn tiếp tục tự mình theo dõi. Anh ngồi trong phòng đợi, nhấm nháp một cốc Guinness và nghĩ về Anna. Trước khi đồng hồ điểm 8 giờ, Tom bước vào, nhìn quanh và thấy bạn mình đang ngồi gần lò sưởi. Jack đứng dậy chào anh ta, và xin lỗi vì đã lôi anh ta xuống Wentworth trong khi nhẽ ra anh ta đã được hưởng một buổi tối vui vẻ với câu lạc bộ Chloe và Hank. “Một khi quán này có thể chế được món đồ uống Tom Collins ngon lành thì cậu sẽ không phải nghe lời phàn nàn của tớ”, Tom trả lời. Tom đang giải thích với Jack về lịch sử hơn nửa thế kỷ của câu lạc bộ Hank thì người phục vụ bàn bước tới và ghi các món mà hai người gọi. Cả hai cùng chọn bít tết, nhưng với tư cách là một người Texas, Tom thú nhận anh vẫn không thể nào quen với kiểu bít tết của Anh quốc, vì theo anh thì bít tết bò của Anh quốc trông giống như được làm từ thịt cừu. “Tôi sẽ gọi cho hai anh”, người phục vụ bàn nói, “ngay khi bàn ăn sẵn sàng”. “Cảm ơn”, Jack nói, trong khi Tom cúi xuống và mở cặp ra. Anh ta lấy ra một tập hồ sơ dày và đặt lên bàn. Chuyện phiếm chưa bao giờ là sở trường của anh ta. “Hãy bắt đầu bằng những tin quan trọng trước nhé”, Tom vừa nói vừa mở tập hồ sơ ra. “Bọn mình đã xác định được người phụ nữ trong bức ảnh mà cậu gửi tới từ Tokyo”. Jack bỏ cốc đồ uống xuống và tập trung vào nội dung của tập hồ sơ. “Tên cô ta là Olga Krantz, và cô ta có một điểm chung với Tiến sỹ Petrescu”. “Đó là gì vậy?”, Jack hỏi. “Mọi người cũng nghĩ rằng cô ta đã mất tích, có thể đã chết. Như cậu có thể thấy trong hồ sơ về cô ta”, Tom vừa nói thêm vừa đẩy một tờ giấy qua bàn, “chúng ta đã mất dấu cô ta vào năm 1989, khi cô ta không còn là vệ sỹ của Ceausescu nữa. Nhưng bây giờ thì có thể kết luận cô ta hiện nay đang làm việc cho Fenston”. “Chỉ là suy diễn”, Jack nói, cùng lúc đó, người hầu bàn đem đến một ly Tom Collins và một cốc Guinness. “Không phải thế, nếu cậu xem xét các sự kiện một cách lôgic”, Tom nói, “và nối kết các chi tiết lại với nhau”, anh ta nói thêm rồi nhấp một ngụm rượu, “Ừm, không phải tồi. Suy cho cùng, cô ta và Fenston có thời cùng làm việc cho Ceausescu”. “Chỉ là trùng hợp”, Jack nói. “Không thể đứng vững trước toà”. “Có thể, nếu cậu biết rõ công việc của cô ta”. “Cậu thử nói xem nào”, Jack nói. “Cô ta có nhiệm vụ loại bỏ bất kỳ ai có thể gây nguy hiểm cho Ceausescu”. “Vẫn chỉ là suy diễn”. “Cho đến khi cậu phát hiện ra cách thức giết người của cô ta”. “Một con dao làm bếp?”, Jack hỏi mà không nhìn xuống tờ giấy trước mặt. “Cậu đoán đúng”, Tom nói. “Nếu cậu đúng, thì còn một mắt xích nữa trong chuỗi lôgic này”. “Gì vậy?”, Tom hỏi. “Anna sẽ là nạn nhân tiếp theo của cô ta” “Không, chuỗi lôgic bị vỡ ở chỗ này, bởi vì sáng nay Krantz đã bị bắt tại Bucharest.” “Cái gì?”, Jack hỏi. “Cảnh sát địa phương đã bắt giữ cô ta”, Tom nói thêm. “Khó có thể tin là họ lại tiếp cận được cô ta, dù là cách một dặm”, Jack nói. “Tớ luôn bị mất dấu cô ta ngay cả khi tớ biết cô ta đang ở đâu”. “Cảnh sát địa phương thừa nhận rằng”, Tom nói, “cô ta lúc đó đang bị bất tỉnh”. “Cho tớ biết chi tiết đi”, Jack nói một cách nôn nóng. “Có vẻ như, và người ta vẫn đang gửi thêm các báo cáo bổ sung khi tớ rời đại sứ quán, là Krantz đã cãi cọ với một người tài xế tắc xi. Trong túi ông này có 500 đôla. Ông ta đã bị cắt đứt họng, còn cô ta thì bị dính đạn vào vai. Chúng ta không biết lý do của vụ việc này, nhưng vì ông ta bị giết chỉ vài phút trước khi cậu cất cánh, bọn tớ nghĩ cậu có thể giúp làm rõ chuyện này”. “Chắc Krantz muốn biết Anna sẽ đi chuyến bay nào, nhưng ông già kia sẽ không đời nào nói cho cô ta biết. Ông ta bảo vệ Anna giống như một người cha bảo vệ cho con gái mình, và 500 đôla chỉ là trùng hợp. Krantz không bao giờ giết người vì một món tiền nhỏ như thế. Và người tài xế tắc xi này không phải là phường lừa đảo khách hàng”. “Dù thế nào thì bây giờ Krantz cũng đã bị khoá chặt. Nếu may mắn, cô ta sẽ được ngồi tù cho đến hết đời. Nhưng chắc cô ta khó có thể gặp may như thế, bởi vì một nửa nước Romania muốn bóp cổ cô ta”. Tom liếc nhìn xuống tập hồ sơ. “Và hoá ra người tài xế tắc xi kia là Đại tá Sergei Slatinaru, một người anh hùng trong cuộc nổi dậy”. Tom uống một hớp bia trước khi nói thêm, “Vậy là cậu không còn phải lo lắng cho sự an toàn của Petrescu nữa”. Người hầu bàn xuất hiện và mời hai người bọn họ vào phòng ăn. “Cũng giống như phần lớn người Romania, tớ chỉ có thể yên tâm khi tận mắt thấy Krantz đã chết”, Jack nói. “Nếu không, tớ vẫn còn lo cho Anna”. “Hay mời cô ta tới đây với bọn mình?”. “Quên chuyện đó đi, chắc lúc này cô ta đang ăn tối với Phu nhân Arabella tại Lâu đài Wentworth”. Một người hầu bàn đặt một bát xúp khoai tây trước mặt Tom và một đĩa xa lát Caesar trước mặt Jack. “Có thêm tin gì về Anna không?”. “Không nhiều”, Tom thú nhận, “nhưng tớ có thể nói cho cậu biết rằng cô ta đã gọi cho Sở cảnh sát New York từ sân bay Bucharest. Cô ta yêu cầu họ gạch tên mình ra khỏi danh sách những người mất tích, nói rằng cô ta đang ở Romania thăm mẹ mình. Cô ta cũng gọi cho bác mình ở Danville, Illinois, và Phu nhân Arabella ở Lâu đài Wentworth”. “Vậy thì cuộc gặp của cô ta ở Tokyo hẳn là đã thất bại”, Jack nói. “Cậu phải giải thích chuyện đó cho tớ nghe”, Tom nói. “Cô ta đã có một cuộc gặp gỡ tại Tokyo với một nhà tài phiệt trong ngành thép gọi là Nakamura, ông ta có một bộ sưu tập tranh ấn tượng lớn nhất thế giới, theo lời của người gác cửa tại khách sạn Seiyo cho tớ biết”. Jack dừng lại. “Chắc chắn là cô ta đã không bán được bức tranh Van Gogh cho Nakamura, và vì thế cô ta đã đưa bức tranh trở lại London, và từ đó gửi sang New York”. “Có thể là như thế”, Tom vừa nói vừa lấy một tờ giấy từ tập hồ sơ ra. “Tiện đây xin nói thêm, cô ta đang bị hãng Happy Hire truy tìm. Họ nói rằng cô ta đã để một chiếc xe của họ lại biên giới Canada, mất chắn bùn trước, mất cả hai thanh ba đờ sốc, tất cả các bóng đèn đều cháy”. “Đó chỉ là chuyện vặt”, Jack nói. “Cậu phải lòng cô gái này à?”, Tom hỏi. Jack không trả lời. Người hầu bàn xuất hiện bên cạnh họ. “Hai bít tết, một tái, một chín”, anh ta nói. “Tái là của tớ”, Tom nói. Người hầu bàn đặt hai chiếc đĩa xuống rồi nói: “Chúc ngon miệng”. “Lại thêm một lối nói mà người Mỹ đã xuất khẩu”, Tom cằn nhằn. Jack mỉm cười. “Cậu có biết thêm gì về Leapman không?” “Ồ, có”, Tom nói. “Chúng ta đã biết thêm nhiều điều về Leapman”. Anh ta liếc nhìn một tập hồ sơ khác trên bàn. “Ông ta là người Mỹ, thế hệ thứ hai, và học luật ở đại học Colombia. Không giống như cậu”, Tom vừa nói vừa cười nhăn nhở. “Sau khi tốt nghiệp, ông ta làm việc cho nhiều ngân hàng, thường là thăng tiến rất nhanh, cho đến khi ông ta dính vào một vụ lừa đảo. Ngón nghề của ông ta là bán trái phiếu cho những bà quả phụ không có thật”. Tom dừng lại. “Quả phụ thì có thật, trái phiếu thì không có thật”. Jack cười, “ông ta ngồi tù hai năm tại Trung tâm Cải tạo Rochester ở New York, và bị cấm hành nghề suốt đời tại bất kỳ một ngân hàng hay một tổ chức tài chính nào”. “Nhưng ông ta là cánh tay phải của Fenston?”. “Đúng là của Fenston, nhưng không phải của ngân hàng Fenston Finance. Tên của ông ta không xuất hiện trong bảng lương của họ, dù là với tư cách người quét dọn. Ông ta đóng thuế thu nhập cá nhân đối với khoản tiền mà ông ta nhận hàng tháng từ một bà cô của mình ở Mêhicô”. “Thôi đi nào...”, Jack nói. “Và cho dù cậu có nói gì, phòng của mình vẫn chưa tìm ra bất cứ một đầu mối nào cho thấy bà cô ấy thực sự tồn tại hay không”. “Có mối quan hệ nào với người Romania không?”, Jack vừa hỏi vừa cắt bít tết. “Không, với những gì chúng ta biết”, Tom nói. “Leapman có thể sẽ là đầu mối tốt nhất của chúng ta”, Jack nói. “Giá mà chúng ta có thể tóm ông ta để khai thác…”. “Không có hy vọng”, Tom nói. “Kể từ khi ra tù, ông ta hết sức cẩn thận, thậm chí ông ta còn chưa bao giờ bị phạt vì tội đỗ xe không đúng quy định, và tớ nghĩ rằng ông ta còn sợ Fenston hơn cả sợ chúng ta”. “Giá mà Hoover còn sống”, Jack nhăn nhở nói. Cả hai người cùng nâng cốc, trước khi Tom nói thêm, “Vậy khi nào cậu bay về Mỹ? Tớ hỏi như thế để biết khi nào thì tớ có thể quay trở lại với công việc hàng ngày”. “Ngày mai, tớ nghĩ thế”, Jack nói. “Bây giờ khi Krantz đã bị bắt, tớ cần phải quay trở lại New York. Macy chắc sẽ muốn biết tớ có tìm ra mối quan hệ nào giữa Krantz và Fenston hay không”. “Và cậu có tìm ra không?”, Tom hỏi. Cả Jack lẫn Tom không ai chú ý tới hai người đàn ông đang nói chuyện với người trưởng nhóm hầu bàn. Chắc chắn không phải họ đang đặt bàn, bởi vì họ không để áo khoác lại quầy tiếp tân. Sau khi người trưởng nhóm hầu bàn đã trả lời câu hỏi của họ, họ đi thẳng qua phòng ăn. Tom đang cho các tập hồ sơ vào cặp của mình thì hai người bọn họ bước tới bên bàn. “Xin chào các ông”, người cao lớn hơn nói. “Tôi là Thám tử, Trung sỹ Frankman, còn đây là đồng nghiệp của tôi, Thám tử, Hạ sỹ Ross. Tôi xin lỗi vì đã làm hỏng bữa ăn của các ông, nhưng tôi cần nói đôi lời với ông”, anh ta vừa nói vừa chạm tay vào vai Jack. “Tại sao, tôi đã làm gì?”, Jack vừa hỏi vừa đặt dao và dĩa xuống. “Đỗ xe trên vạch vàng đôi à?”. “Tôi e là nghiêm trọng hơn thế, thưa ông”, viên trung sỹ nói, “và vì vậy tôi phải mời ông về đồn”. “Vì tội gì?”, Jack hỏi. “Tôi nghĩ sẽ là khôn ngoan hơn nếu chúng ta không tiếp tục nói chuyện ở một quán ăn đông người”. “Và theo lệnh của ai...”. “Tôi nghĩ ông không nên tham dự vào chuyện này”. “Đó là quyền của tôi”, Tom nói và móc phù hiệu FBI từ túi áo trong ra. Anh ta vừa định mở chiếc ví da ra thì Jack chạm vào khuỷu tay anh và nói, “Không nên gây chú ý. Không nên để Cục phải dính líu vào chuyện này”. “Bọn người này nghĩ họ đang nói chuyện với...”. “Thôi nào, Tom. Đây không phải là nước Mỹ. Tớ sẽ đi với họ tới đồn cảnh sát để giải quyết chuyện này”. Tom miễn cưỡng cho tấm phù hiệu FBI vào túi áo, và cho dù anh ta không nói gì, khuôn mặt của anh ta nói rõ với hai người cảnh sát kia cảm xúc của anh ta. Khi Jack đứng lên, viên trung sỹ ngay lập tức cho còng vào tay anh. “Này, có thật cần thiết phải làm thế không?”, Tom nói. “Tom, đừng can dự vào chuyện này”, Jack nói bằng một giọng ôn hoà. Tom miễn cưỡng theo Jack ra khỏi phòng ăn, qua một căn phòng đầy khách, những người chăm chú nói chuyện và ăn uống như thể không có chuyện gì bất thường xảy ra quanh họ. Khi ra tới cửa, Tom nói, “Cậu có cần tớ cùng đi tới đồn cảnh sát không?”. “Không”, Jack trả lời, “tại sao cậu không ở lại. Đừng lo, tớ sẽ về kịp giờ để uống cà phê”. Có hai người phụ nữ nhìn Jack chằm chằm từ phía bên kia hành lang. “Có phải anh ta không, thưa bà?”. “Đúng là anh ta”, một trong hai người phụ nữ ấy khẳng định. Khi Tina nghe thấy tiếng mở cửa, chị ngay lập tức tắt màn hình theo dõi. Chị không nhìn lên, bởi vì chỉ có một người không bao giờ gõ cửa khi bước vào phòng chị. “Tôi nghĩ cô biết Petrescu đang trên đường trở về New York?”. “Tôi đã nghe nói”, Tina vừa nói vừa tiếp tục đánh máy. “Nhưng cô có nghe nói rằng”, Leapman đặt cả hai tay lên bàn chị, “cô ta đã tìm cách đánh cắp bức tranh Van Gogh?”. “Bức tranh trong phòng chủ tịch à?”, Tina hỏi một cách ngây thơ. “Đừng vờ vịt với tôi”, Leapman nói. “Cô nghĩ tôi không biết là cô nghe lỏm mọi cuộc nói chuyện điện thoại của chủ tịch à?”. Tina ngừng đánh máy và nhìn lên. “Có lẽ đã đến lúc báo cho ngài Fenston biết về nút chuyển mạch dưới bàn làm việc của cô, và việc cô có thể theo dõi chủ tịch mỗi khi ông ấy nói chuyện với bất kỳ ai trong văn phòng”. “Ông doạ tôi đấy à, ông Leapman?”, Tina hỏi. “Bởi vì nếu thế, tôi cũng có chuyện muốn nói với chủ tịch”. “Và tại sao tôi lại phải quan tâm tới chuyện của cô?”, Leapman hỏi. “Về những cuộc điện thoại mà hàng tuần ông nhận được từ một người tên là Pickford, và có thể chúng ta sẽ biết ai là người đang vờ vịt”. Leapman bỏ tay ra khỏi bàn và đứng thẳng dậy. “Tôi nghĩ cơ quan điều tra sẽ rất quan tâm khi biết rằng ông đã quấy rối nhân viên của một ngân hàng mà ông không làm việc cho nó, không có văn phòng trong đó, và không nhận lương của ngân hàng ấy”. Leapman lùi lại một bước. “Lần sau tới thăm tôi, ông Leapman, ông hãy gõ cửa, như bất kỳ một vị khách nào của ngân hàng”. Leapman lùi lại một bước nữa, lưỡng lự, rồi bước ra ngoài mà không nói lấy một lời. Khi cánh cửa đóng lại, Tina run tới mức chị phải nắm chặt lấy tay ghế.